Đóng góp tích cực cho phát triển kinh tế - xã hội của Thủ đô, nhưng thời gian qua, các doanh nghiệp (DN) công nghiệp trên địa bàn Hà Nội vẫn còn những hạn chế trong việc sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới khả năng cạnh tranh của DN và tác động tiêu cực tới an ninh năng lượng quốc gia.
Tiềm năng lớn
Thành phố Hà Nội là trung tâm sản xuất công nghiệp lớn thứ hai của cả nước, đã và đang phát huy vai trò tích cực trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong những năm gần đây, công nghiệp Hà Nội đã có những bước phát triển nhất định. Số lượng DN tăng lên nhanh chóng và ở hầu hết các thành phần, các ngành sản xuất, với sự xuất hiện của nhiều DN có quy mô vừa và quy mô lớn.
Những ngành và sản phẩm công nghiệp của Hà Nội có thể coi là thế mạnh với sự tập trung đông đảo các DN, có đủ sức cạnh tranh và có kim ngạch xuất khẩu, đó là: chế biến thực phẩm, dệt may, giày dép, sản xuất tivi, radio, thiết bị thông tin, sản phẩm chế tạo từ kim loại, sản phẩm từ cao su và plastic, chế tạo máy móc thiết bị.
DN công nghiệp có vai trò quyết định đến sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá và là một khu vực quan trọng trong việc thu hút, sử dụng các nguồn lực đầu tư cũng như công nghệ, chất xám phục vụ cho phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố. Mặc dù chỉ chiếm khoảng 1/5 số DN đang hoạt động trên địa bàn, song các DN công nghiệp đã đóng góp khoảng 30% vào GDP Thành phố và chiếm tỷ trọng 10,5% giá trị sản xuất công nghiệp toàn quốc.
Bốn năm trở lại đây, số lượng, quy mô DN công nghiệp trên địa bàn đã có sự gia tăng đáng kể, theo quy mô và cơ cấu ngành nghề, theo từng khu vực kinh tế. Điều này đã dẫn đến có sự thay đổi đáng kể về số lượng các DN sử dụng năng lượng trọng điểm trên địa bàn thành phố Hà Nội. Đây là những DN mà năng lượng được tiêu thụ với số lượng lớn. Trong khi giá năng lượng tăng cao và không ổn định đã và đang là vấn đề tác động đến tăng trưởng, năng lực cạnh tranh của các DN. Sản xuất như thế nào để có năng suất cao, chi phí năng lượng, nhiên liệu, nhân công, nguyên vật liệu là nhỏ nhất luôn là vấn đề được nhiều lãnh đạo các DN quan tâm.
Theo Văn phòng Tiết kiệm năng lượng - Bộ Công Thương, qua các chương trình kiểm toán năng lượng và các kết quả khảo sát tại các DN công nghiệp, tiềm năng tiết kiệm năng lượng của các ngành công nghiệp, như: xi măng, thép, giấy, hoá chất... là rất lớn. Các kết quả kiểm toán năng lượng tại 5 nhà máy xi măng cho thấy mức tiết kiệm điện trung bình đạt khoảng 50,8 kWh/tấn xi măng hay 30,7% và mức tiết kiệm nhiệt trung bình đạt khoảng 1,5 GJ/tấn clinke hay 6,2%. Đối với ngành thép, tiêu thụ năng lượng trong ngành công nghiệp thép của Việt Nam khá cao so với thông lệ quốc tế. Đối với các nhà máy nhựa, mức tiêu thụ điện trung bình của các nhà máy nhựa ở VN là 1,85 kWh/kg hay 6,7GJ/tấn. Theo ước tính với mức giảm tiêu thụ năng lượng tiềm năng 10%, mức tiết kiệm năng lượng sẽ là 7,7 tỷ kWh và mức đầu tư khoảng 1 triệu USD...
Hiện nay, trên địa bàn Hà Nội đã có một số DN sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, như Công ty Cổ phần giấy Vạn Điểm (Hà Nội) có quy mô sản xuất lớn hơn, mỗi năm tiêu tốn khoảng gần 11 triệu kWh điện và khoảng 4.670 tấn than. Những năm gần đây, Vạn Điểm đã áp dụng nhiều biện pháp để tiết kiệm triệt để các nguồn năng lượng. Vạn Điểm đã thay thế bóng đèn huỳnh quang T8 bằng loại bóng T5, tiết kiệm điện được 16W/bóng và đem lại hiệu quả chiếu sáng tương đương. Với vốn đầu tư khoảng 16 triệu đồng, chỉ sau 1 năm Vạn Điểm đã thu hồi lại được vốn đầu tư nhờ tiết kiệm được gần 11 ngàn kWh, trị giá 15 triệu đồng.
Cùng với đó, Công ty Cổ phần giấy Vạn Điểm cũng triển khai lắp đặt biến tần cho hệ thống máy nén khí. Máy biến tần có chức năng điều áp, giúp cân bằng công suất cho hệ thống máy nén khí khi chạy quá tải hoặc non tải. Hệ thống này đảm bảo cho máy nén khí hoạt động ở hiệu suất cao nhất với mức tiêu thụ năng lượng thấp nhất. Nhờ đó, giảm được lượng điện năng tiêu thụ.
Không dừng lại ở những kết quả đạt được, để tiết kiệm than, Vạn Điểm còn đã cử đội ngũ cán bộ năng lượng đi đào tạo thêm để hiểu rõ hơn về quy trình vận hành cũng như cách thức sử dụng lò hơi mới. Với đường ống phân phối hơi, công ty cũng tiến hành bọc bảo ôn vị trí các van nối, đường ống hỏng để tránh thất thoát nhiệt và tiết kiệm được than. Hiện nay, mỗi năm Công ty Vạn Điểm đã tiết kiệm được 3,6 tấn than, tương đương với 110 triệu đồng.
Về vấn đề quản lý năng lượng, đơn vị này cũng xây dựng kế hoạch để giảm cường độ năng lượng trong các năm tiếp theo, với mục tiêu mỗi năm giảm 1%. Công ty Vạn Điểm cũng đặt kế hoạch hoàn thiện hệ thống quản lý năng lượng trong DN, hoàn thiện hệ thống giám sát năng lượng cho từng thiết bị để được cấp giấy chứng nhận ISO 50001.
Kết quả chưa như mong đợi
Đảng và Nhà nước nói chung, cũng như UBND Thành phố Hà Nội nói riêng đã rất tích cực đẩy mạnh việc sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả trong sản xuất ở các DN, như: xây dựng mô hình quản lý sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả ở các DN; xây dựng và từng bước giới thiệu tiêu chuẩn Hệ thống quản lý năng lượng trong doanh nghiệp (ISO 50001), hỗ trợ các DN sản xuất công nghiệp thực hiện nâng cấp, cải tiến, hợp lý hoá dây chuyền công nghệ nhằm sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả...
Tuy nhiên, tình hình sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả tại các DN sử dụng năng lượng trên địa bàn Thành phố Hà Nội nhìn chung chưa được thực hiện tích cực, toàn diện. Sản xuất công nghiệp do nhiều nguyên nhân khác nhau, khiến chi phí năng lượng còn quá cao so với các nước trong khu vực. Trong khâu tiêu thụ năng lượng, tình hình sử dụng năng lượng kém hiệu còn phổ biến. Trong sản xuất công nghiệp (hộ tiêu thụ lớn nhất, chiếm hơn 50% số năng lượng), tỷ suất năng lượng tiêu hao cho một đơn vị sản phẩm cao hơn nhiều không chỉ so với các nước tiên tiến, mà so cả với những nước trong khu vực.
Thực trạng nói trên xuất phát từ một số nguyên nhân, như: Khó khăn lớn nhất nhằm đạt được mục tiêu tiết kiệm điện xuất phát từ cơ sở vật chất hạ tầng và nhận thức của cộng đồng DN còn hạn chế. Các nhà máy, xí nghiệp vẫn sử dụng các trang thiết bị đã lỗi thời và các công nghệ lạc hậu dẫn đến hiệu quả sử dụng năng lượng thấp, tổn thất lớn đặc biệt trong các khâu vận hành. Hầu như tất cả các nhà máy, xí nghiệp tại Hà Nội đều chưa có mô hình quản lý năng lượng hiệu quả, thiếu cán bộ chuyên trách quản lý năng lượng công việc này vẫn mang tính chất kiêm nhiệm, không được chú trọng và thiếu chuyên sâu…
Do đó, một số chương trình về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả tại các DN sản xuất công nghiệp tuy đã được tiến hành, nhưng, các chương trình này vẫn chưa được phổ biến rộng, chưa có đội ngũ cán bộ có đủ năng lực để tự tiến hành theo phương pháp và cách thức đảm bảo tính chuẩn tắc để thực hiện kiểm toán năng lượng; các biện pháp áp dụng tiết kiệm năng lượng chưa được đề xuất một cách có hệ thống, toàn diện cũng như chưa đánh giá được tính khả thi của các biện pháp đó.
4 giải pháp cho hiệu quả
Nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, các DN công nghiệp trên địa bàn Hà Nội cần thực hiện có hiệu quả 4 giải pháp.
Thứ nhất, cần phải xây dựng một hệ thống giám sát, tuân thủ Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả trong các cơ sở sản xuất công nghiệp. Cụ thể như yêu cầu các DN trọng điểm phải thực hiện kiểm toán bắt buộc, báo cáo tình hình sử dụng năng lượng, thiết lập các hệ thống quản lý năng lượng mới và hoàn thành kế hoạch nhằm đạt được các kết quả về tiết kiệm năng lượng. Bên cạnh việc triển khai thực thi luật, để đạt được mục tiêu tiết kiệm trong cơ sở sản xuất công nghiệp cần xây dựng chính sách khuyến khích sử dụng năng lượng hiệu quả trong các cơ sở công nghiệp mới, đồng thời hỗ trợ tài chính cho các dự án nâng cấp, cải tạo sử dụng năng lượng có hiệu quả.
Thứ hai, để đạt được mục tiêu tiết kiệm điện năng đối với một số ngành công nghiệp tiêu thụ nhiều năng lượng như: sản xuất thép, xi măng, khai khoáng, giấy, thực phẩm, dệt may... Trước mắt, DN cần xây dựng các giải pháp sử dụng điện tiết kiệm và hiệu quả, đảm bảo sử dụng đúng công suất và biểu đồ phụ tải đã đăng ký trong hợp đồng mua bán điện. Đồng thời, bố trí kế hoạch sản xuất hợp lý, hạn chế tối đa việc huy động các thiết bị tiêu thụ công suất điện lớn như các máy nghiền, trạm bơm nước, máy nén khí... vào giờ cao điểm, không để các thiết bị điện hoạt động không tải.
Bên cạnh đó, cần chú ý tắt các thiết bị điện và đèn chiếu sáng không cần thiết trong thời gian nghỉ giữa ca; triệt để tiết kiệm điện chiếu sáng sân, vườn, đường nội bộ trong các khu công nghiệp. Mặt khác, chuẩn bị các nguồn dự phòng để đáp ứng nhu cầu sản xuất khi xảy ra thiếu điện, xây dựng phương án tự cắt giảm phụ tải khi xảy ra thiếu điện.
Thứ ba, xây dựng hệ thống quản lý và giám sát mức tiêu thụ điện năng trong sản xuất và kinh doanh của các cơ sở sản xuất công nghiệp, khuyến khích tiến tới bắt buộc áp dụng các định mức tiêu hao năng lượng tiên tiến trên một đơn vị sản phẩm đối với một số ngành công nghiệp tiêu thụ nhiều năng lượng. Cùng với đó, thực hiện quản lý năng lượng các cơ sở sử dụng năng lượng trọng điểm, hướng dẫn và hỗ trợ các doanh nghiệp thành lập hệ thống quản lý năng lượng nhằm tuân thủ Luật Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả.
Đối với các cơ sở sản xuất công nghiệp có mức tiêu thụ năng lượng hàng năm nhỏ hơn 1000TOE, khuyến khích tham gia chương trình kiểm toán năng lượng tự nguyện. Ngoài ra, hỗ trợ đầu tư đối với các cơ sở sản xuất công nghiệp thực hiện các giải pháp tiết kiệm điện, nâng cao hiệu suất sử dụng điện, thay thế thiết bị lạc hậu tiêu tốn nhiều điện năng.
Thứ tư, đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả tới cộng đồng doanh nghiệp; thường xuyên cập nhật thông tin và ứng dụng giải pháp tiết kiệm năng lượng; Tập huấn cho cán bộ, người lao động về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả...